1. SỐT VÀNG DA LÀ GÌ?
Sốt vàng là nhiễm trùng flavivirus do muỗi gây ra lưu hành ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ và vùng cận Sahara ở Châu Phi. Các triệu chứng có thể bao gồm khởi phát đột ngột sốt, nhịp tim chậm, đau đầu, và, nếu biểu hiện nặng sẽ có vàng da, xuất huyết, và suy đa phủ tạng. Chẩn đoán nuôi cấy virus, RT-PCR, và xét nghiệm huyết thanh học. Điều trị là hỗ trợ. Phòng ngừa bao gồm tiêm phòng và kiểm soát muỗi.
Con số thống kê về bệnh
Năm 2013, sốt vàng dẫn đến khoảng 127.000 trường hợp nhiễm nặng và 45.000 trường hợp tử vong, với gần 90% trường hợp xảy ra ở Châu Phi. Gần một tỷ người sống trong một khu vực của thế giới nơi căn bệnh này là phổ biến. Nó phổ biến ở các vùng nhiệt đới ở Nam Mỹ và Châu Phi, nhưng không ở Châu Á. Từ những năm 1980, số ca sốt vàng đã tăng lên. Điều này được cho là do ít người được miễn dịch, nhiều người sống ở các thành phố, người di chuyển thường xuyên, và thay đổi khí hậu. Căn bệnh này bắt nguồn từ châu Phi, từ nơi nó lan sang Nam Mỹ thông qua việc buôn bán nô lệ vào thế kỷ 17. Kể từ thế kỷ 17, một số đợt dịch lớn xảy ra ở châu Mỹ, châu Phi và châu Âu. Trong thế kỷ 18 và 19, sốt vàng được coi là một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất. Trong năm 1927, virus sốt vàng trở thành virus ở người đầu tiên bị cô lập.
2. NGUYÊN NHÂN
Virus gây bệnh sốt vàng thuộc họ Flaviviridae, vật chất di truyền là RNA sợi đơn, khoảng 40 – 69 nm. Virus gây bệnh có một type huyết thanh duy nhất và có 7 kiểu gen chính đã được biết đến. Virus có thể gây bệnh ở cả con người và các loài động vật linh trưởng khác. Khi bị muỗi đốt, virus xâm nhập vào cơ thể con người, theo hạch bạch huyết đến gây bệnh nhiều cơ quan khác như tổn thương gan, tổn thương thận, tổn thương cơ tim, rối loạn chức năng đông máu,…
3. TRIỆU CHỨNG & DẤU HIỆU
Biểu hiện cấp tính. Thời kỳ khởi phát thường xuất hiện khoảng 3 – 6 ngày từ khi bị muỗi Aedes đốt. Người bệnh có các triệu chứng không đặc hiệu giống nhiễm trùng virus thông thường khác như như sốt cao, 39 – 41 độ C, mệt mỏi, khó chịu, đau mỏi người, đau nhức cơ xương khớp, đau đầu, chán ăn, buồn nôn,… Thăm khám thực thế có thể thấy: da và kết mạc sung huyết, lưỡi đỏ, mạch tương đối chậm không tương xứng với nhiệt độ cơ thể cao, ấn đau thượng vị, gan to, đau, trường hợp nặng có thể có dấu hiệu vàng da. Các bất thường xét nghiệm có thể ghi nhận: công thức máu thấy giảm số lượng bạch cầu xảy ra nhanh và sớm ngay từ những ngày đầu mắc bệnh, tăng men transaminase AST, ALT, các marker viêm như CRP, procalciton thường bình thường hoặc tăng nhẹ,… Giai đoạn này không thể phân biệt bệnh sốt vàng với nhiễm trùng cấp tính khác.
4. BIẾN CHỨNG
Biến chứng có thể gặp như: bôi nhiễm vi khuẩn( viêm phổi, viêm tuyến mang tai, nhiễm khuẩn huyết,…); suy đa tạng; xuất huyết nội tạng; đông máu rải rác trong lòng mạch; viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, suy tim; sốc nhiễm khuẩn; sốc giảm thể tích; thậm chí tử vong. Cần chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và theo dõi sát người bệnh.
5. BỆNH CÓ NGUY HIỂM KHÔNG?
Sốt vàng da là một trong những dịch bệnh nguy hiểm nhất khởi phát ban đầu tại Angola và Cộng hòa Dân chủ Congo. Tuy đã có vắc xin phòng chống bệnh nhưng mỗi năm vẫn có hàng nghìn người mắc bệnh ở châu Phi. Với tốc độ phát triển rất nhanh, nó có thể lây lan sang châu Âu, châu Á, châu Mỹ và có nguy cơ trở thành đại dịch toàn cầu.
6. ĐỐI TƯỢNG NGUY CƠ BỆNH
Bất cứ ai cũng có thể bị nhiễm virus sốt vàng da, song nhóm người có nguy cơ cao dễ mắc bệnh là trẻ em, người lớn tuổi, người có nghề nghiệp phải thường xuyên phơi nhiễm cho muỗi tấn công, đốt, hút máu.
Như trên đã trình bày, bệnh sốt vàng hay gặp ở vùng Nam Mỹ( ví dụ Brazil), vùng nhiệt đới Châu Phi cận Sahara. Tất cả các đối tượng đều có thể mắc bệnh, đặc biệt là trẻ nhỏ, tỉ lệ tử vong cao ở người cao tuổi. Vào mùa mưa, muỗi Aedes phát triển mạnh, trong hốc cây chứa nước mưa, các dụng cụ chứa nước tại khu vực nhà ở,… Những người sống tại khu vực này, hoặc du lịch đến khu vực này vào mùa muỗi sinh trưởng mạnh tăng nguy cơ mắc bệnh. Tốc độ lan truyền của virus tương đối nhanh, có thể gây thành dịch. Ngoài ra, nếu truyền máu và các chế phẩm máu hoặc nhận tạng ghép của người bị nhiễm virus, cũng tăng nguy cơ mắc bệnh.
7. PHÒNG NGỪA
Các biện pháp phòng ngừa bao gồm:
- Tránh muỗi
- Tiêm chủng
Cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa sự bùng phát bệnh sốt vàng là
- Duy trì tỷ lệ tiêm phòng ≥ 80% của người dân ở những vùng có nguy cơ sốt vàng
Cũng hữu ích để giảm số lượng muỗi và hạn chế muỗi đốt bằng cách sử dụng diethyltoluamide (DEET), màn chống muỗi và trang phục bảo hộ. Trong thời gian bùng phát dịch bệnh trong rừng, mọi người nên sơ tán khỏi khu vực này cho đến khi chúng được dập tắt và muỗi được kiểm soát. Tiêm chủng vắc xin sốt vàng da cho dân chúng được sử dụng để kiểm soát sự bùng phát bệnh sốt vàng thông qua tiêm chủng. Một liều vắc-xin duy nhất có thể cung cấp khả năng miễn dịch lâu dài đối với bệnh sốt vàng da.
8. CHẨN ĐOÁN
Nuôi cấy vi rút, phản ứng chuỗi phiên mã ngược – polymerase (RT-PCR) hoặc xét nghiệm huyết thanh học
Sốt sốt vàng được nghi ngờ ở bệnh nhân trong lưu hành ở các vùng lưu hành nếu phát sốt với bệnh nhịp tim chậm và vàng da; bệnh nhẹ thường không được chẩn đoán.
Công thức máu, xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm chức năng gan, xét nghiệm đông máu, nuôi cấy virus, và xét nghiệm huyết thanh học nên được thực hiện. Giảm bạch cầu với giảm bạch cầu hạt là phổ biến, cũng như giảm tiểu cầu, đông máu kéo dài, và tăng PT. Bilirubin và men gan có thể tăng cao và kéo dài trong vài tháng. Albumin niệu, xuất hiện ở 90% bệnh nhân, có thể đạt đến 20 g/L; nó giúp phân biệt sốt vàng và viêm gan. Trong sốt vàng da ác tính, hạ đường huyết và tăng kali máu có thể xảy ra ở giai đoạn cuối.
Chẩn đoán sốt vàng da được xác định bằng nuôi cấy, xét nghiệm huyết thanh, RT-PCR, hoặc xác định hoại tử tế bào gan giữa đặc trưng khi khám nghiệm tử thi.
Sinh thiết kim gan trong thời gian bị ốm không được chỉ định vì nguy cơ xuất huyết.
9. ĐIỀU TRỊ
Hiện chưa có thuốc kháng virus được chứng minh hiệu quả, các biện pháp điều trị chính vẫn là điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Những trường hợp nặng, cần chuyển người bệnh đến các đơn vị hồi sức tích cực.
Các biện pháp điều trị triệu chứng, hỗ trợ: người bệnh cần nghỉ ngơi tuyệt đối; hạ sốt bằng paracetamol liều 10 – 15 mg/kg/ lần khi sốt từ 38,5 độ C, mỗi lần cách nhau từ 4 – 6 tiếng, chú ý tác dụng phụ trên gan của paracetamol; hạn chế sử dụng các thuốc chuyển hóa qua gan và gây độc cho gan; bù dịch đảm bảo khối lượng tuần hoàn, sử dụng các thuốc vận mạch khi có chỉ định; điều chỉnh rối loạn điện giải; đảm bảo thăng bằng – kiềm toan; hỗ trợ hô hấp; đảm bảo chế độ dinh dưỡng; truyền các chế phẩm máu khi có chỉ định như tiểu cầu, huyết tương tươi đông lạnh; lọc máu nếu tình trạng toan chuyển hóa nặng; điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm khi có bội nhiễm vi khuẩn,…
Liệu pháp kháng virus: đã và đang được nghiên cứu. Ribavirin với nồng độ rất cao có thể chống lại virus gây bệnh nhưng không đạt được hiệu quả trên lâm sàng. Các kháng thể đơn dòng đã được sử dụng tuy nhiên hiệu quả lâm sàng là chưa chắc chắn và cần nghiên cứu thêm
10. CÂU HỎI HAY GẶP
Đường lây truyền của sốt vàng da?
Vector truyền bệnh chính và ổ chứa tự nhiên của virus là muỗi Aedes. Virus lan truyền theo đường máu từ người và động vật bị bệnh sang người lành khi bị muỗi đốt. Đã ghi nhận virus có thể lây truyền từ người sang người thông qua con đường truyền máu hoặc các chế phẩm máu hoặc ghép tạng,… Virus không lây truyền qua các con đường lây truyền khác như đường hô hấp, đường tiêu hóa, tiếp xúc thông thường,…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
World Health Organization. Yellow Fever – Angola
1. ProMED mail. Yellow fever - Countries with dengue: Alert
2. World Health Organization. Yellow Fever - China
3. World Health Organization. Yellow fever - Brazil
4. Centers for Disease Control and Prevention. Search for Yellow Fever
5. Leslie V. Simon; Muhammad F. Hashmi; Klaus D. Torp. Yellow Fever. StatPearls